Tên chung quốc tế: Sodium chloride
Mã ATC: A12CA01, B05CB01, B05XA03, S01XA03.
Loại thuốc: Cung cấp chất điện giải, tưới rửa.
Chế phẩm phối hợp dùng để bù nước và điện giải.
Khi tiêm tĩnh mạch, dung dịch natri clorid là nguồn cung cấp bổ sung nước và chất điện giải. Dung dịch natri clorid 0,9% (đẳng trương) có áp suất thẩm thấu xấp xỉ với dịch trong cơ thể. Natri là cation chính của dịch ngoại bào và có chức năng chủ yếu trong điều hòa sự phân bố nước, cân bằng nước, điện giải và áp suất thẩm thấu của dịch cơ thể. Natri kết hợp với clorid và bicarbonat trong điều hòa cân bằng acid-base, được thể hiện bằng sự thay đổi nồng độ clorid trong huyết thanh. Clorid là anion chính của dịch ngoại bào. Dung dịch tiêm natri clorid có khả năng gây bài niệu phụ thuộc vào thể tích tiêm truyền và điều kiện lâm sàng của người bệnh. Dung dịch natri clorid 0,9% không gây tan hồng cầu.
Dung dịch nhỏ mắt natri clorid ưu trương có khả năng giảm phù giác mạc do thẩm thấu qua biểu mô giác mạc có tính bán thấm.
Natri clorid được hấp thu qua Đường tiêu hóa.Thuốc được phân bố rộng rãi trong cơ thể. Thải trừ chủ yếu qua nước tiểu và một lượng nhỏ được thải trừ qua phân và mồ hôi.
Bổ sung natri clorid và nước trong trường hợp mất nước do tiêu chảy, sốt cao, sau phẫu thuật, mất máu. Phòng và điều trị thiếu hụt natri và clorid do bài niệu quá mức hoặc hạn chế muối quá mức; phòng co cơ (chuột rút) và mệt lả do ra mồ hôi quá nhiều vì nhiệt độ cao.
Dung dịch tiêm natri clorid nhược trương (0,45%) được dùng chủ yếu làm dung dịch bồi phụ nước, và có thể sử dụng để đánh giá chức năng thận, để điều trị đái tháo đường tăng áp lực thẩm thấu. Dung dịch natri clorid đẳng trương (0,9%) được dùng rộng rãi để thay thế dịch ngoại bào và trong xử lý nhiễm kiềm chuyển hóa có mất dịch và giảm natri nhẹ; và là dịch dùng trong thẩm tách máu, dùng khi bắt đầu và kết thúc truyền máu.
Natri clorid còn được dùng trong điều trị nhiễm toan ceton do đái tháo đường (nhằm hồi phục thể tích tuần hoàn nếu huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg). Dung dịch natri ưu trương (3%, 5%) dùng cho trường hợp thiếu hụt natri clorid nghiêm trọng cần phục hồi điện giải nhanh; (thiếu hụt natri clorid nghiêm trọng có thể xảy ra khi có suy tim hoặc giảm chức năng thận, hoặc trong khi phẫu thuật hoặc sau phẫu thuật). Còn được dùng khi giảm natri và clor huyết do dùng dịch không có natri trong nước và điện giải trị liệu, và khi xử lý trường hợp dịch ngoại bào pha loãng quá mức sau khi dùng quá nhiều nước (thụt hoặc truyền dịch tưới rửa nhiều lần vào trong các xoang tĩnh mạch mở khi cắt bỏ tuyến tiền liệt qua niệu đạo).
Thuốc tiêm natri clorid 0,9% cũng được dùng làm dung môi pha tiêm truyền một số thuốc tương hợp.
Nhu cầu natri không thay đổi trong suốt thời kỳ mang thai. Nước muối rửa mũi có thể dùng được cho phụ nữ mang thai để điều trị viêm mũi.
Natri bài tiết vào sữa. Nhu cầu natri không thay đổi trong suốt thời kỳ cho con bú.
Nếu có một ADR nào xảy ra, phải ngừng truyền thuốc ngay. Kiểm tra tình trạng người bệnh và điều trị thích hợp nếu cần.
Natri clorid có thể uống, dùng ngoài hoặc tiêm truyền tĩnh mạch. Khi có chỉ định dùng dung dịch natri clorid 3% hoặc 5%, các dung dịch này phải được tiêm vào một tĩnh mạch lớn, không được để thuốc thoát mạch. Natri clorid còn được dùng bằng đường khí dung qua miệng.
Dung dịch dùng ngoài: Không làm nóng quá 66 °C, không dùng để tiêm truyền. Dung dịch rửa vết thương: Loại bỏ 1 ít dung dịch trước khi dùng để vệ sinh vòi phun.
Liều dùng natri clorid tùy thuộc vào tuổi, cân nặng, tình trạng mất nước, cân bằng acid-base và điện giải của người bệnh.
Nhu cầu natri và clorid ở người lớn thường có thể được bù đủ bằng tiêm truyền tĩnh mạch 1 lít dung dịch tiêm natri clorid 0,9% hàng ngày hoặc 1 – 2 lít dung dịch tiêm natri clorid 0,45%.
Liều thông thường ban đầu tiêm truyền tĩnh mạch dung dịch natri clorid 3% hoặc 5% là 100 ml tiêm truyền trong 1 giờ. Trước khi tiêm thêm, cần phải định lượng nồng độ điện giải trong huyết thanh, bao gồm cả clorid và bicarbonat. Tiêm truyền tĩnh mạch dung dịch 3% hoặc 5% natri clorid không được vượt quá 100 ml/giờ. Liều uống natri clorid thông thường là 1 – 2 g/lần, 3 lần/ngày. Nhiễm toan ceton do đái tháo đường: Truyền tĩnh mạch 500 ml dung dịch natri clorid 0,9% trong 10 – 15 phút, lặp lại nếu huyết áp dưới 90 mmHg, hỏi ý kiến của các chuyên gia y tế.
Nếu huyết áp trên 90 mmHg, truyền dung dịch natri clorid 0,9% với tốc độ đủ bù lượng thiếu hụt. Chế độ duy trì còn bao gồm dùng Kali clorid, Insulin hòa tan, các hợp chất tương tự insulin kéo dài và dung dịch Glucose 10%.
Natri clorid có thể làm tăng nồng độ của tolvaptan. Tránh sử dụng đồng thời 2 thuốc trên.
Thừa natri làm tăng bài tiết lithi; thiếu natri có thể thúc đẩy lithi bị giữ lại và tăng nguy cơ gây độc; người bệnh dùng lithi không được ăn nhạt.
Dung dịch natri clorid ưu trương dùng đồng thời với oxytocin có thể gây tăng trương lực tử cung, có thể gây vỡ tử cung hoặc rách cổ tử cung. Cần theo dõi khi dùng đồng thời.
Triệu chứng: buồn nôn, nôn, tiêu chảy, co cứng bụng, khát, giảm nước mắt và nước bọt, hạ kali huyết, tăng natri huyết, vã mồ hôi, sốt cao, tim nhanh, tăng huyết áp, suy thận, phù ngoại biên và phù phổi, ngừng thở, nhức đầu, hoa mắt, co giật, hôn mê và tử vong.
Xử trí: Trong trường hợp mới dùng natri clorid, gây nôn hoặc rửa dạ dày kèm theo điều trị triệu chứng và hỗ trợ.
Khi có tăng natri huyết, nồng độ natri phải được điều chỉnh từ từ với tốc độ không vượt quá 10 – 12 mmol/lit hàng ngày: Tiêm truyền tĩnh mạch các dung dịch natri clorid nhược trương và đẳng trương (nhược trương đối với người bệnh ưu trương); khi thận bị thương tổn nặng, nếu cần thiết, có thể thẩm phân.